Chức năng tổ chức trong quản lý là gì là một trong những keyword được search nhiều nhất về chủ đề Chức năng tổ chức trong quản lý là gì. Trong bài viết này, timviecgap.vn sẽ viết bài viết Chức năng tổ chức trong quản lý là gì? Mục tiêu của tổ chức quản lí.
Chức năng tổ chức trong quản lý là gì? Mục tiêu của tổ chức quản lí
khái niệm và mục tiêu của tính năng đơn vị
khái niệm
Một khi mục đích, các plan và kế hoạch của tổ chức đang được dựng lại, nhà quản trị cần phải thiết lập một cấu trúc tổ chức hiệu quả nhằm hỗ trợ cho việc đạt được mục đích. tính năng đơn vị đứng ở vị trí thứ hai trong công cuộc quản trị, nhưng nó có ý nghĩa quyết định đến kết quả của đơn vị. Nói phương pháp khác, đơn vị là một trong những hoạt động cần thiết nhất của quản trị. Thật vậy, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã cho thấy 70 – 80% những khiếm khuyết trong việc thực hiện các mục tiêu là do yếu kém của công tác tổ chức. Nhưng tính năng đơn vị được định nghĩa giống như thế nào? Trong thực tiễn có nhiều hướng dẫn hiểu không giống nhau về thuật ngữ này.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ thì đơn vị có các nghĩa sau đây:
+ làm cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng nhất định.
+ làm những gì quan trọng đế tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được một hiệu quả to nhất.
+ sử dụng công tác tổ chức cán bộ.
đơn vị theo từ nguồn Hy Lạp ‘Organon’ nghĩa là ‘hài hòa’, từ đơn vị nói lên một quan niệm rất tổng quát “đó là cái đem lại bản chất thích nghi với sự sống” .
Theo Chester I. Barnard thì tổ chức là một nền tảng những hoạt động hay cố gắng của hai hay nhiều người được phối hợp với nhau một cách có ý thức.
Theo Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich thì công tác đơn vị là “việc nhóm gộp các hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu, là việc giao phó mỗi group cho một người quản lý với quyền hạn quan trọng để giám sát nó, và là việc tạo điều kiện cho sự liên kết ngang và dọc trong cơ cấu của doanh nghiệp”.
có thể kéo ra nhiều ý kiến của các tác giả khác nữa nhưng điều cần thiết là chủ đề chúng ta cần xem xét bản chất của tính năng đơn vị từ góc độ của khoa học quản trị. đo đạt từ những khái niệm khác nhau về chức năng tổ chức, chúng ta có thể hiểu bản chất của tính năng đơn vị là thiết kế một cấu trúc đơn vị hiệu quả nhằm đảm bảo cho các hoạt động quản trị đạt được mục tiêu của nó. Nói hướng dẫn khác, chức năng đơn vị bao gồm các công việc liên quan đến định hình và phân chia công việc phải sử dụng, những người hoặc group người nào sẽ giúp việc gì, ai chịu trách nhiệm về những kết quả nào, các công việc sẽ được phối hợp với nhau như thế nào, ai sẽ báo cáo cho ai và những quyết định được sử dụng ra ở cấp nào hay bộ phận nào.
Trong chương này, để có thể hiểu và vận dụng vào công việc quản trị trong thực tế, content tính năng tổ chức được xem xét gồm có việc phân chia và tạo dựng các bộ phận trong đơn vị, thiết lập cơ cấu tổ chức nhằm xác lập các mối quan hệ về nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ phận, và những cơ sở khoa học để design cấu trúc tổ chức ví dụ như chủ đề tầm hạn quản trị, tập quyền và phân quyền, và ủy quyền trong quản trị.
mục tiêu của công tác đơn vị
mục tiêu của công tác đơn vị là gì? có thể nói mục đích tổng quát nhất của công tác tổ chức là thiết kế được một cấu trúc tổ chức vận hành một mẹo hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu mà tổ chức đang xác định. Cấu trúc tổ chức thích hợp nghĩa là tạo dựng nên cơ cấu quản trị cho phép sự phối hợp các hoạt động và các cố gắng giữa các bộ phận và các cấp tốt nhất.
Những mục tiêu cụ thể đối với công việc tổ chức mà các tổ chức thường hay target tới là: (1) thiết lập một bộ máy quản trị gọn nhẹ và có hiệu lực; (2) xây dựng nếp văn hóa của đơn vị lành mạnh; (3) đơn vị công việc khoa học; (4) Phát hiện, uốn nắn và điều chỉnh kịp thời mọi hoạt động yếu kém trong tổ chức; (5) Phát huy hết sức mạnh của các gốc tài nguyên vốn có; (6) Tạo thế và lực cho đơn vị thích nghi với mọi môi trường thuận lợi cũng giống như khó khăn ở bên trong và bên ngoài tổ chức.
Cũng giống như mọi loại mục tiêu quản trị không giống, mục đích của công tác tổ chức phải khoa học, khả thi, phải thêm vào với hoàn cảnh thực tế. không giống với yêu cầu về các loại mục tiêu quản trị không giống, yêu cầu so với các mục đích về đơn vị là phải tuân thủ những qui luật khách quan đặc thù của công tác tổ chức. gợi ý như qui luật về tầm hạn quản trị, qui luật về cấu trúc tổ chức, qui luật về phân chia quyền hạn, bổ nhiệm, đề cử, đề bạt, thăng chức v.v…
Tầm hạn quản trị
Tầm hạn quản trị, hay còn gọi là tầm hạn làm chủ, là khái niệm dùng để chỉ tỉ lệ nhân sự cấp dưới mà một nhà quản trị đủ nội lực điều khiển một cách tốt xinh nhất, nghĩa là quản trị, giao việc, rà soát hướng dẫn, lãnh đạo nhân sự dưới quyền một mẹo thỏa đáng, có kết quả.
Tầm hạn quản trị/ làm chủ
Tầm hạn quản trị nhận được sự quan tâm rất to đối với những nhà nghiên cứu quản trị. Mặc dù không thể mang ra con số tầm hạn quản trị bao nhiêu là lý tưởng nhất nhưng theo kinh nghiệm quản trị, tầm hạn quản trị tốt nhất cho một nhà quản trị trung bình trong khoảng 4 – 8 nhân viên thuộc cấp. tuy nhiên, con số này đủ sức tăng lên đến 12 hay 16 trong trường hợp nhân sự dưới quyền chỉ sử dụng những việc dễ dàng, và rút xuống còn 2 – 3 người khi công việc mà cấp dưới trực tiếp của nhà quản trị phải thực hiện là khó khăn.
vì sao mà khái niệm tầm hạn quản trị lại cần thiết khi design cấu trúc tổ chức? Câu trả lời là tầm hạn quản trị có liên quan mật thiết đến số tầng nấc trung gian và tỉ lệ nhà quản trị trong một tổ chức. Chẳng hạn, theo tác giả Stephen P. Robbins, nếu một doanh nghiệp có 4.096 nhân sự thừa hành và tầm hạn quản trị của toàn doanh nghiệp là 4 thì số cấp quản trị là 6 và tỉ lệ nhà quản trị là 1.365 người giống như được thể hiện trong hình 7.2. trái lại, với tầm hạn quản trị là 8 thì số cấp quản trị giảm xuống chỉ còn 4 cấp và số nhà quản trị là 585 người. giống như vậy, với tầm hạn quản trị rộng, tổ chức sẽ có ít tầng nấc trung gian và tiết kiệm được số quản trị viên (1.365 – 585 = 780 người). Từ ví dụ trên, hẳn nhiên chúng ta đủ sức thấy được là ngân sách tiền lương phải trả cho những nhà quản trị đủ nội lực cắt giảm được là rất đáng kể.
Tầm hạn quản trị và số cấp quản trị
Vì tầm hạn quản trị là quan trọng so với công việc design cấu trúc đơn vị, chúng ta cần biết được những ưu và nhược điểm của tầm hạn quản trị rộng và hẹp như được tóm lược trong Bảng 7.1.
Thông thường, người ta k like những bộ máy đơn vị có nhiều tầng nấc trung gian, vì giống như vậy nó sẽ giúp chậm trễ và lệch lạc sự thông đạt cũng giống như quá trình khắc phục công việc trong xí nghiệp. Ai cũng mong muốn bỏ bớt các tầng nấc trung gian để có được những bộ máy tổ chức gọn nhẹ. bên cạnh đó, như đã đề cập ở trên, chủ đề các tầng nấc trung gian liên quan đến tầm hạn quản trị. Nếu tầm hạn quản trị rộng, sẽ có ít tầng nấc; ngược lại nếu tầm hạn quản trị hẹp, sẽ có nhiều tầng nấc. vì vậy, muốn giải quyết vấn đề các tầng nấc trung gian trong một bộ máy đơn vị, cần phải định hình tầm hạn quản trị nên rộng hay nên hẹp. Nhưng cần lưu ý rằng, sự xác định này không thể chủ quan mà chúng ta cần phải nhìn thấy xét đến các nguyên nhân tác động đến tầm hạn quản trị. Những nhân tố chủ yếu bao gồm: (1) Trình độ và năng lực của nhà quản trị; (2) mức độ và suy nghĩ của cấp dưới; (3) mối gắn kết giữa các nhân sự với nhân viên cũng như giữa các nhân sự và nhà quản trị; (4) thuộc tính khó khăn và cấp độ ổn định của công việc; và (5) Kỹ thuật thông tin.
Bảng 7.1. Ưu yếu điểm của tầm hạn quản trị hẹp và rộng | |
Tầm hạn quản trị hẹp | |
*ưu điểm | *yếu điểm |
+ Giám sát và kiểm soát chặt chẽ | + tăng số cấp quản trị |
+ Truyền đạt thông tin đến các thuộc cấp khẩn trương | + Cấp trên dễ can thiệp sâu vào công việc của cấp dưới |
+ Tốn kém nhiều chi phí quản trị | |
+ Truyền đạt thông tin đến cấp dưới cùng k gấp rút | |
Tầm hạn quản trị rộng | |
*ưu thế | * yếu điểm |
+ Giảm số cấp quản trị | + Có nguy cơ không kiểm soát nổi |
+ đủ nội lực tiết kiệm được chi phí quản trị | + trạng thái quá đăng ở cấp trên dễ kéo đến quyết định chậm |
+ Cấp trên buộc phải phân chia quyền hạn | + phải có những nhà quản trị thông minh |
+ phải có chính sách rõ ràng | + Truyền đạt thông tin đến các thuộc cấp không khẩn trương |
Tầm hạn quản trị rộng chỉ thuận tiện khi nhà quản trị có đầy đủ năng lực, khi cấp dưới có trình độ sử dụng việc khá, cũng giống như khi công việc của cấp dưới ổn định, có plan, ít thay đổi; và cấp dưới đang được người quản trị cấp trên ủy quyền hành động khá nhiều. thêm vào đó, kỹ thuật thông tin hiện đại cũng tạo điều kiện cho việc xây dựng rộng tầm hạn quản trị mà nhà quản trị vẫn có thể thông đạt và kiểm soát hữu hiệu các thuộc cấp. trái lại, nếu năng lực của nhà quản trị có giới hạn, trình độ của cấp dưới cũng không cao, hoặc khi công việc của cấp dưới thường xuyên cải thiện, công việc không có plan, thì tầm hạn quản trị hẹp lại thích hợp hơn.
cách thức phân chia bộ phận trong cơ cấu đơn vị
Phân chia theo thời gian
Một trong những hình thức phân chia bộ phận lâu đời nhất thường được sử dụng ở cấp thấp trong đơn vị là việc group gộp các hoạt động theo thời gian (theo ca, theo kíp). hình chức phân chia này thường áp dụng ở những tổ chức phải hoạt động tiếp tục để khai thác công suất máy với hiệu quả cao hơn.
Phân chia theo chức năng
Việc nhóm gộp các hoạt động cùng chuyên môn thành các tính năng được sử dụng khá rộng rãi trong thực tiễn, gợi ý như trong một xí nghiệp đủ sức thành lập các bộ phận đảm nhiệm các chức năng giống như kỹ thuật, kế toán, sản xuất, nhân sự và kinh doanh (Hình 7.3). Trong mỗi bộ phận đó, lại tiếp tục phân công và thành lập những đơn vị nhỏ lo việc nghiên cứu marketing, tuyên truyền quảng cáo, phát triển hàng hóa mới, cung ứng nguyên vật liệu v.v… Ưu yếu điểm của công thức này được chỉ ra trong ảnh 7.3.
Phân chia bộ phận theo tính năng
Phân chia theo lãnh thổ
Phân chia bộ phận theo lãnh thổ
Là phương thức được ứng dụng khi xí nghiệp hoạt động trên một địa bàn khá rộng và thường thì kinh doanh những sản phẩm giống nhau. mẹo này cũng được ứng dụng trong việc thành lập các bộ phận hành chánh sự nghiệp theo lãnh thổ, ví dụ các Phòng Thương nghiệp ở Quận, Huyện. Nhà quản trị lựa chọn phương thức này khi những đặc điểm của địa phương là quan trọng so với đầu vào của sản xuất, hoặc đối với sự tiêu thụ hàng hóa. hình 7.4 chỉ ra việc phân chia bộ phận theo lãnh thổ của một công ty kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam và những ưu yếu điểm của cách thức phân chia này.
Phân chia theo món hàng
Là cách thức đơn vị trong đó xí nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh nhiều món hàng, thành lập nên những đơn vị chuyên doanh theo từng loại hàng hóa. cách thức này được áp dụng khi các hàng hóa có qui trình công nghệ sản xuất và chiến lược quảng cáo không giống nhau. ví dụ, các công ty oto ở Mỹ thường thành lập các nhà máy theo từng loại ôtô. ưu thế của cách thức này là nâng cao trình độ chuyên môn hóa trong sản xuất mua bán, nhưng song song cũng có những nhược điểm giống như cách thức phân chia theo lãnh thổ.
Phân chia bộ phận theo hàng hóa
Phân chia theo KH
Phản ánh sự quan tâm của xí nghiệp so với việc thỏa mãn các yêu cầu khác biệt nhau của từng loại KH. hình 7.6 (trang sau) chỉ ra sự phân chia theo khách hàng và những ưu yếu điểm của mẹo phân chia này.
mẹo tổ chức này được áp dụng rộng rãi trong các cơ sở mua bán, và càng ngày càng được áp dụng nhiều trong các cơ sở hành chánh sự nghiệp.
Phân chia bộ phận theo khách hàng
Phân chia theo quy trình hay thiết bị
bí quyết phân chia này đủ sức được minh họa bằng ví dụ xí nghiệp tạo dựng bộ phận phụ trách việc xi mạ, bộ phận phụ trách sơn phủ, hoặc bộ phận vi tính.
tổng kết, có nhiều phương pháp không giống nhau để phân chia các bộ phận trong một đơn vị. tuy nhiên, k có cách phân chia bộ phận nào là tốt nhất cho mọi đơn vị và cho mọi nơi. Nhà quản trị phải lựa chọn cho thích hợp nhất với hoàn cảnh đặc điểm tình huống cụ thể của tổ chức mình.
Cơ cấu đơn vị quản trị
Cơ cấu tổ chức quản trị là tổng hợp các bộ phận không giống nhau, được chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được sắp đặt theo những cấp nhằm bảo đảm thực hiện các tính năng quản trị và giúp cho mục đích chung vừa mới định hình. Cơ cấu đơn vị quản trị càng hoàn hảo càng tác động một phương pháp kết quả đến sản xuất, mua bán, dịch vụ sử dụng gia tăng doanh số. trái lại, nếu cơ cấu đơn vị cồng kềnh, nhiều cấp, nhiều khâu, design công việc không tương quan quyền hành, xếp đặt nhân sự k đúng sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và giảm doanh số. quan tâm tăng trưởng và hoàn thiện cơ cấu đơn vị quản trị sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp bức xúc nhanh chóng trước những chuyển biến trong sản xuất mua bán, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả dùng các gốc lực không giống nhau trong doanh nghiệp.
Mọi hoạt động quản trị có nhiều người tham dự đều cần có sự thống trị, và để thống trị cần phải có đơn vị. tiến trình thiết kế và xây dựng đơn vị từ những bộ phận nhỏ hơn là một hình thức thể hiện của qui luật khách quan về chuyên môn hóa lao động trong quản trị. Chính sự tồn tại của các bộ phận hoạt động tương đối độc lập và liên quan giữa chúng trong một đơn vị đã tạo nên cơ cấu của nó. giống như vậy cơ cấu tổ chức bộ máy là thống kê các bộ phận (đơn vị và cá nhân) không giống nhau, có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được sắp xếp theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản trị và phục vụ mục tiêu chung đang xác định của đơn vị.
Để đảm bảo việc thiết kế một cơ cấu đơn vị quản trị phù hợp, chúng ta cần phải nắm bắt được các nguyên tắc tổ chức, những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và hiểu biết về các kiểu cơ cấu đơn vị quản trị.
nguyên tắc thiết lập cơ cấu đơn vị
Trong thực tế không hiếm khi chúng ta bắt gặp trường hợp nhân sự của một cơ quan nọ một lúc họ nhận được hai nghĩa vụ khác nhau: một từ người thủ trưởng trực tiếp, một từ người trợ lý của thủ trưởng cấp trên. chắc chắn chúng ta thấy người nhân sự này sẽ không biết nghe ai? Việc k tuân thủ nguyên tắc mỗi cán bộ, công nhân viên trong một tổ chức chỉ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của một thủ trưởng đang dẫn tới trường hợp dở khóc dở cười này. Ở đây xuất hiện một vấn đề là trong công tác tổ chức chúng ta phải tuân thủ những quy tắc nào và việc áp dụng chúng ra sao để đạt kết quả tốt nhất. giải quyết những chủ đề vừa nêu có tầm cần thiết rất lớn ở mỗi tổ chức. thiết kế và hoàn thiện cơ cấu guồng máy, ban bệ, công việc.v.v… Là những công việc thường có tầm quan trọng plan. Sai sót trong công tác tổ chức có ảnh hưởng sâu sắc tới all các mặt hoạt động quản trị không giống. xây dựng và tuân thủ một hệ thống các nguyên tắc đơn vị khoa học sẽ góp phần hạn chế những sai lầm kể trên. Mặt khác công tác đơn vị là những hoạt động quản trị sáng tạo, nó cần được sự tán thành tán thành và ủng hộ của những người có liên quan.
Một trong những cơ sở khoa học của sự nhất trí đó là việc tuân thủ những đòi hỏi khách quan của các nguyên tắc tổ chức khoa học. Tiến hành các hoạt động về tổ chức không theo một nguyên tắc nào cả (vô nguyên tắc) sẽ kéo đến sự tùy tiện mà hậu quả tất nhiên k thể nói là tốt xinh được. Tính tất yếu khách quan trong việc thiết lập và tuân thủ các nguyên tắc khoa học về đơn vị quản trị nằm ở ngay trong tính qui luật của chính những nguyên tắc đang được đề ra. Điều này có nghĩa là các quy tắc tổ chức không thể được đặt ra một hướng dẫn tùy tiện. Nó chính là hiện thân của các đòi hỏi khách quan và sự áp dụng sáng tạo của các qui luật về tổ chức quản trị. Những nguyên tắc tổ chức chính thường được dùng trên thực tế là:
+ Thống nhất chỉ huy: Mỗi thành viên trong tổ chức chỉ chịu trách nhiệm báo cáo cho nhà quản trị trực tiếp của mình.
+ Gắn với mục tiêu: bao giờ bộ máy của doanh nghiệp cũng phải thích hợp với mục tiêu. mục đích là cơ sở để xây dựng bộ máy đơn vị của doanh nghiệp.
+ Cân đối: Cân đối giữa quyền hành và trách nhiệm, cân đối về các công việc giữa các đơn vị với nhau. Sự cân đối sẽ tạo sự ổn định trong công ty và cần phải có cân đối trong mô ảnh tổ chức doanh nghiệp nói chung.
+ Hiệu quả: Bộ máy đơn vị phải thiết lập trên quy tắc cắt giảm chi phí.
+ Linh hoạt: Bộ máy quản trị phải linh hoạt để đủ nội lực đối phó kịp thời với sự refresh của hoàn cảnh bên ngoài và nhà quản trị cũng phải linh hoạt trong hoạt động để có những quyết định đáp ứng với sự cải thiện của đơn vị.
ngoài ra, khi thiết lập bộ máy đơn vị, nhà quản trị cũng cần phải để ý đến những yêu cầu khác giống như quét chất lượng sử dụng trọng chứ k get số đông là chủ yếu, tam quyền phân lập, chuyên môn hóa, khoa học, hợp lý, thêm vào với nơi thực tế, kết hợp quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức theo công việc, theo nghĩa vụ chứ k theo nhu cầu của mỗi một mình, mỗi con người, cung cấp đòi hỏi của các qui luật khách quan về tổ chức như tầm hạn quản trị, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản lý, không chồng chéo, phối hợp group chính thức và nhóm phi chính thức, kế thừa.
Các yếu tố tác động đến cơ cấu tổ chức
Có 4 thành phần quan trọng chi phối việc thiết lập cơ cấu tổ chức của một xí nghiệp hay cơ quan mà nhà quản trị phải để ý. Hay nói một cách cụ thể trong công cuộc thiết lập cơ cấu đơn vị của xí nghiệp hay cơ quan, nhà quản trị phải căn cứ vào 4 nguyên nhân sau đây:
(1) mục đích và chiến lược hoạt động của xí nghiệp
Cơ cấu tổ chức của một xí nghiệp tùy thuộc vào plan hay những Nhiệm vụ và mục tiêu mà xí nghiệp phải hoàn thành vì:
(a) plan định hình các nghĩa vụ của xí nghiệp và căn cứ vào các Nhiệm vụ đó mà thiết lập bộ máy.
(b) kế hoạch quyết định loại công nghệ kỹ thuật và con người thích hợp với việc hoàn thiện các nhiệm vụ; cơ cấu đơn vị sẽ phải được thiết kế theo loại công nghệ được sử dụng cũng như theo những đặc điểm của con người trong xí nghiệp đó.
(c) chiến lược dựng lại hoàn cảnh nơi trong đó xí nghiệp sẽ hoạt động và môi trường môi trường này sẽ tác động đến việc thiết kế bộ máy tổ chức.
(2) Bối cảnh mua bán hay bối cảnh thế giới
nơi bên ngoài của một công ty có thể là một trong 3 kiểu: ổn định, refresh và xáo trộn.
Một hoàn cảnh ổn định là một nơi không có hay ít có những cải thiện đột biến, ít có món hàng mới, nhu cầu đối tượng ít thăng trầm, luật pháp liên quan đến hoạt động mua bán ít cải thiện, khoa học kỹ thuật mới ít xuất hiện… Tình hình kinh tế không gian trên toàn thế giới hiện đại với sự refresh gấp rút về khoa học kỹ thuật cho thấy cho đến nay khó để có một hoàn cảnh ổn định cho các doanh nghiệp. không những thế chẳng phải là k có những doanh nghiệp, xí nghiệp vừa mới giữ nguyên bộ máy tổ chức của họ trải qua cả trăm năm (như doanh nghiệp E.E. Dickinson) với hàng hóa đặc biệt truyền thống của họ.
trái lại, một hoàn cảnh cải thiện là một hoàn cảnh trong đó có sự cải thiện tiếp tục xảy ra đối với các nguyên nhân đã kể ở trên (sản phẩm, thị trường, pháp luật,.v.v.) Trong môi trường này, các nhà quản trị thường phải thay đổi bộ máy đơn vị của họ theo các refresh đó. Nói chung, đó là những refresh có thể dự đoán trước và k gây ngạc nhiên. Các văn phòng luật sư, các doanh nghiệp cố vấn luật pháp thường phải mãi mãi sắp xếp cơ cấu đơn vị để thích ứng với các thay đổi thường xuyên của pháp luật là một gợi ý.
Khi các đối thủ cạnh tranh mang ra món hàng mới một cách ngạc nhiên, khi luật pháp bất ngờ thay đổi, khi những khoa học kỹ thuật mới xây dựng những thay đổi phương pháp online trong phương thức sản xuất, đó là lúc mà nơi của xí nghiệp đủ nội lực được gọi là môi trường xáo trộn.
Để thích nghi với các hoàn cảnh không giống nhau đó, cơ cấu tổ chức của các công ty sẽ phải cải thiện để thêm vào. Burn và Stalker cho thấy rằng một bộ máy đơn vị có tính chất cứng nhắc, nghĩa vụ được phân chia rõ ràng, gắn kết quyền hành chặt chẽ từ trên xuống dưới, thêm vào với nơi ổn định. trái lại, trong một nơi xáo trộn, một bộ máy tổ chức có tính chất linh động, con người làm việc theo tinh thần hợp tác, bàn bạc thoải mái với tất cả người xung quanh, không phân chia rõ Nhiệm vụ, cấp bậc thì lại thêm vào hơn.
(3) Công nghệ sản xuất hoặc kỹ thuật kinh doanh của xí nghiệp
Nhiều công trình nghiên cứu đang chứng minh rằng công nghệ sản xuất của xí nghiệp là một yếu tố cần thiết có ảnh hưởng đến việc design bộ máy tổ chức. Công trình tìm hiểu nổi tiếng nhất xác định mối quan hệ giữa cơ cấu và công nghệ, là nghiên cứu của Joan Woodward tại South Essex trong thập niên 60. Khởi thủy, cuộc nghiên cứu nhằm tìm mối quan hệ giữa thành quả quản trị với việc vận dụng các nguyên tắc tổ chức (ví dụ, tầm hạn quản trị). Các cuộc điều tra cho thấy không có mối quan hệ nào giữa hai thành phần trên, nhưng lại tìm thấy mối gắn kết giữa cơ cấu đơn vị của xí nghiệp với công nghệ ứng dụng. Woodward vừa mới cho thấy rằng những xí nghiệp có công nghệ sản xuất, qui trình hoạt động khó khăn thường có cơ cấu tổ chức nhiều cấp bậc, với đặc điểm là mức độ giám sát và hòa hợp công việc được thực hiện với cường độ cao. Woodward cũng cho thấy rằng tầm hạn quản trị thường là hẹp ở các xí nghiệp sản xuất thủ công, cũng giống như ở xí nghiệp có công nghệ tinh vi hiện đại. ngược lại, trong xí nghiệp sử dụng việc theo lối dây chuyền, vì công nghệ đang trở thành đơn giản, tầm hạn quản trị lại khá rộng, nghĩa là một nhà quản trị đủ sức giám sát công việc của một số đông công nhân. Một đặc điểm thứ ba của mối quan hệ giữa công nghệ và cơ cấu đơn vị là khi công nghệ trong xí nghiệp càng tinh vi và hiện đại, thì số lượng viên chức thư ký văn phòng lại càng tăng để giải quyết các công việc giấy tờ, các công việc bảo trì v.v…
(4) Năng lực và trình độ của con người trong xí nghiệp
Cuối cùng con người trong xí nghiệp cũng là một yếu tố có tác động đến cơ cấu tổ chức. Loại cá nhân có tác động trước tiên đối với công tác xây dựng bộ máy đơn vị là nhà quản trị cấp cao. Sở like, thói quen, quan điểm riêng của họ thường để dấu ấn trên bí quyết tổ chức của xí nghiệp mà họ phụ trách. Ngoài các nhà quản trị cơ cấu đơn vị thường cũng phải thích hợp với các đặc điểm về trình độ, về tác phong làm việc của nhân sự trong xí nghiệp. giống như vừa mới trình bày tầm hạn quản trị, một thành phần quyết định bộ máy tổ chức có nhiều hay ít cấp bậc, hoàn toàn là một biến số lệ thuộc vào các đặc trưng của con người trong mỗi xí nghiệp.
Các kiểu cơ cấu đơn vị quản trị
Cơ cấu đơn vị quản trị Trực tuyến
Cơ cấu này được thiết lập trên nguyên lý sau:
+ Mỗi cấp chỉ có một thủ trưởng cấp trên trực tiếp.
+ liên kết trong cơ cấu tổ chức này được xây dựng chủ yếu theo chiều dọc.
+ Công việc quản trị được tiến hành theo tuyến.
Sơ đồ Cơ cấu quản trị online
Sơ đồ cơ cấu quản trị online với ưu yếu điểm của kiểu cơ cấu này được trình bày trong hình 7.7. Với những ưu yếu điểm như được trình bày, cơ cấu này chỉ thích hợp với những xí nghiệp có qui mô nhỏ, sản phẩm k phức tạp và tính chất sản xuất tiếp tục.
Cơ cấu tổ chức quản trị theo tính năng
Cơ cấu này được thực hiện trên nguyên lý là:
+ Có sự tồn tại các đơn vị tính năng.
+ không theo tuyến.
+ Các đơn vị tính năng có quyền chỉ đạo các đơn vị Trực tuyến, vì thế mỗi người cấp dưới đủ nội lực có nhiều cấp trên trực tiếp của mình.
Sơ đồ cơ cấu quản trị tính năng và ưu nhược điểm của kiểu cơ cấu này được trình bày trong hình 7.8. Với nhược điểm cơ bản của kiểu cơ cấu này là vi phạm quy tắc thống nhất chỉ huy, do đó cơ cấu này chỉ tồn tại trên lý thuyết mà thôi.
Sơ đồ cơ cấu quản trị chức năng
Cơ cấu tổ chức quản trị online – chức năng
Đây là kiểu cơ cấu hỗn hợp của hai loại cơ cấu online và chức năng.
Kiểu cơ cấu này có đặc điểm cơ bản là vẫn tồn tại các tổ chức tính năng nhưng chỉ đơn giản về chuyên môn, không có quyền chỉ đạo các tổ chức online. Những người lãnh đạo Trực tuyến chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động và được toàn quyền quyết định trong tổ chức mình phụ trách. Hinh 7.9 chỉ ra sơ đồ cơ cấu quản trị Trực tuyến chức năng, ưu và nhược điểm của kiểu cơ cấu này.
Sơ đồ cơ cấu quản trị Trực tuyến – tính năng
Cơ cấu quản trị ma trận
Đây là mô ảnh hiện tại được nhiều nhà quản trị quan tâm khi thiết kế bộ máy quản trị của tổ chức. Cơ cấu này có nhiều cách gọi khác nhau, như tổ chức chia theo ảo trận, bàn cờ, tạm thời, hay quản trị theo đề án, sản phẩm.
+ Cơ cấu ma trận cho phép đồng thời thực hiện nhiều dự án
+ Sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau
+ Cơ cấu này ngoài người lãnh đạo theo tuyến và theo tính năng còn được sự giúp đỡ của người lãnh đạo theo đề án
+ Trong cơ cấu này mỗi member của bộ phận Trực tuyến với bộ phận tính năng được gắn liền với việc thực hiện một đề án trên một khu vực nhất định
+ Sau khi đề án hoàn thiện, những member trong đề án trở về vị trí, tổ chức cũ
Sơ đồ cơ cấu quản trị ảo trận và ưu nhược điểm của mô ảnh này được trình bày trong hình 7.10.
Sơ đồ cơ cấu quản trị ma trận
Quyền hạn và ủy quyền trong quản trị
Quyền hạn quản trị
bàn luận cũng giống như thực tiễn luôn chỉ ra rằng, kết quả của tiến trình ra quyết định và đơn vị thực hiện quyết định trong quản trị lệ thuộc rất nhiều vào việc phân quyền, ủy quyền, cùng việc xác định quyền hạn và quyền lực cho mỗi cá nhân, bộ phận trong một đơn vị. tìm hiểu phương pháp sử dụng khoa học về quyền hạn, quyền lực và trách nhiệm có ý nghĩa rất lớn lớn trong việc nâng cao hiệu quả của việc tổ chức và thực hiện các quyết định trong quản trị.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ thì “quyền hạn có nghĩa là quyền được xác định về nội dung, phạm vi và mức độ. Quyền lực có nghĩa là quyền được định đoạt và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”.
Chúng ta không thể hình dung nỗi trong một tổ chức nếu ai cũng có quyền hoặc chẳng có ai có quyền gì cả. Trong trường hợp trước tiên sẽ dẫn tới việc vô chính phủ, trong trường hợp thứ hai sẽ dẫn tới sự vô trách nhiệm. như vậy chủ đề là ở chỗ cần phải phân định và định hình rõ quyền hạn trong đơn vị để quản trị. Nếu k giải quyết thỏa đáng vấn đề này thì hậu quả thật khó mà lường được.
Bản chất của quyền hạn trong các quyết định về quản trị là ai được (hay có) quyền gì so với ai, ở đâu cũng như vào lúc nào và nó cũng có nghĩa là ai phải phục tùng sự thống trị và điều hành của ai.
Quyền hạn không phải là thứ trời cho mà nó sinh ra từ nhu cầu và sự phân công của đơn vị, phục vụ đơn vị và tuân thủ pháp luật. Quyền hạn là công cụ của nhà quản trị, mong muốn quản trị cần phải có quyền. chủ đề đặt ra là quyền hạn của nhà quản trị xuất hành từ đâu, làm sao nhà quản trị có quyền hạn?
Về gốc gốc của quyền hạn, có nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng quyền hạn quản trị xuất hành từ chức vụ. gợi ý giám đốc một xí nghiệp có quyền hạn vì người đó giữ chức giám đốc. Lý thuyết này đúng nhưng chưa quá đủ, vì không cho biết được hiện tượng có giám đốc ra lệnh mà nhân sự không thi hành, tức là nhân viên không thừa nhận quyền hành của giám đốc. do đó, có tác giả cho rằng quyền của giám đốc xuất phát từ sự chấp thuận của cấp dưới. Chừng nào cấp dưới chấp thuận sự chỉ đạo của giám đốc và làm theo chỉ đạo đó, thì giám đốc còn có quyền. ngược lại, nếu cấp dưới từ chối k chấp nhận chỉ đạo của giám đốc, không sử dụng theo chỉ đạo của giám đốc, thì giám đốc hết quyền. mẹo cho biết này thể hiện được tính chất song phương và gắn kết con người trong việc dùng quyền hạn, nhưng không cho biết được trọn vẹn gốc nguồn của quyền hạn. Có nhiều trường hợp, cấp dưới phủ định quyền hạn của cấp trên, tức là k chấp thuận, nhưng vẫn phải sử dụng theo chỉ đạo của cấp trên do sự cưỡng bức, ép buộc.
Chúng ta có thể chấp thuận lý thuyết của nhà không gian học người Đức, Max Weber, cho rằng quyền hạn của nhà quản trị chỉ đầy đủ nếu có quá đủ 3 yếu tố: sự hợp pháp khi đảm nhận chức phận, cấp dưới thừa nhận quyền hạn đó là chính đáng và chính mình nhà quản trị có khả năng và các đức tính khiến cấp dưới tin tưởng. Nếu k có đủ 3 yếu tố trên, quyền hạn của nhà quản trị sẽ k vững mạnh, rất khó điều khiển cấp dưới.
tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, quyền hạn của nhà quản trị bị giới hạn bởi nhiều thành phần như pháp luật, các qui định của nhà nước, đạo đức thế giới, điều kiện sinh học của con người… Mặt không giống, có mối liên kết khá chặt chẽ giữa phương thức nhà quản trị sử dụng quyền hạn so với nhân viên và tinh thần, thái độ sử dụng việc của nhân viên. Nếu nhà quản trị dùng biện pháp cưỡng bách, đe doạ thì nhân sự vì sợ mà sử dụng việc nhưng thiếu nhiệt tình. Nếu nhà quản trị dùng biện pháp mua chuộc bằng ích lợi, nhân viên sẽ có thái độ tính toán, cân nhắc theo sự lợi hại đối với bản thân. Nếu mong muốn nhân sự làm việc nhiệt tình, chú ý đến ích lợi chung của doanh nghiệp, thì nhà quản trị nên dùng quyền hạn một mẹo nhẹ nhàng, trong tinh thần hợp tác vì mục đích chung của công ty.
Tập quyền và phân quyền
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc đơn vị chính là cấp độ tập quyền hay mức độ quyền hạn được phân chia, ủy thác nhiều hay ít cho các cấp quản trị thấp hơn. Phân quyền là thiên hướng phân tán các quyền ra quyết định trong một cơ cấu đơn vị. Trong trường hợp ngược lại, khuynh hướng quyền lực tụ hội vào tay những nhà quản trị cấp cao mà k hoặc rất ít được giao phó cho cấp thấp hơn, chúng ta có sự tập quyền. Nói rạch ròi hơn, cấp độ phân quyền càng lớn khi:
(1) tỉ lệ các quyết định được đề ra ở cấp thấp hơn ngày càng nhiều.
(2) Các quyết định được đề ra ở cấp thấp hơn ngày càng cần thiết. ví dụ giống như khoản chi tiêu được cấp thấp hơn duyệt chi càng lớn.
(3) Càng có nhiều chức năng chịu ảnh hưởng bởi các quyết định được đề ra ở cấp thấp hơn trong tổ chức. Thí dụ giống như ở các công ty chỉ cho phép các quyết định về sản xuất ở riêng từng xí nghiệp chi nhánh, sẽ có sự phân quyền ít hơn các doanh nghiệp cho phép có thêm các quyết định về tài chính và nhân viên ở các xí nghiệp đó.
(4) Một nhà quản trị càng ít phải check một quyết định cùng với những người khác. Sự phân quyền càng to khi không có bất kỳ sự tra cứu nào phải thực hiện và càng nhỏ khi phải thông báo về quyết định đó với cấp trên sau khi vừa mới được ban ra và càng nhỏ thêm nữa nếu trước khi ra quyết định còn phải đọc qua quan niệm của cấp trên.
mục tiêu của việc phân quyền quản trị chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức cung cấp kịp thời, nhanh chóng và thích hợp với những yêu cầu của tình ảnh. Nếu không phân quyền, mọi việc đều phải đưa cho nhà quản trị cấp cao nhất quyết định thì sẽ chậm trễ và đủ sức k cung cấp đúng với đòi hỏi của thực tiễn. Việc phân quyền rất cần thiết khi doanh nghiệp có nhiều tổ chức ở rải rác khắp kênh, mỗi tổ chức sản xuất mua bán riêng biệt theo yêu cầu của địa bàn.
không những thế, sự phân quyền cũng nhằm giải phóng bớt khối lượng công việc cho nhà quản trị cấp cao, cùng lúc cũng tạo điều kiện huấn luyện các nhà quản trị trung cấp, chuẩn bị thay thế các nhà quản trị cấp cao khi quan trọng.
cấp độ phân quyền nhiều hơn hay quy tụ quyền lực nhiều hơn là một trong những nhân tố cơ bản của hệ thống quản trị và nó có ảnh hưởng đến all các chính sách quản trị. Trong thực tế quản trị, để bộ máy quản trị vận hành một mẹo kết quả cấp độ tụ hội hay phân quyền cần được định hình đúng. Theo quan điểm quản trị cổ điển, các nhân tố ảnh hưởng đến tập quyền hoặc phân quyền được chỉ ra trong Bảng 7.2 dưới đây.
Bảng 7.2. Những Nhân Tố ảnh hưởng đến cấp độ Tập Quyền và Phân Quyền | ||
Tập quyền | Phân Quyền | |
nơi ổn định Những nhà quản trị cấp thấp hơn thiếu mức độ và kinh nghiệm ra quyết định Những nhà quản trị cấp thấp hơn không sẳn lòng tham dự làm quyết định Quyết định rất quan trọng đơn vị vừa mới đối mặt với rủi ro khủng hoảng/phá sản | môi trường phức tạp và biến động Những nhà quản trị cấp thấp hơn có cấp độ và trải nghiệm ra quyết định Những nhà quản trị cấp thấp hơn mong muốn tham dự sử dụng quyết định Quyết định kém quan trọng công ty phân tán rộng theo lãnh thổ |
Ủy quyền (ủy thác công việc) trong quản trị
khái niệm
Ủy quyền (delegation) là giao phó quyền hạn và trách nhiệm cho người xung quanh để họ thay quyền thực hiện một Nhiệm vụ riêng biệt.
Uỷ quyền giúp cho người quản lý:
– đưa ra những quyết định sáng suốt hơn
– Tận dụng tối đa quỹ thời gian
– quản lý được một group có đông thành viên
– Nâng cao kết quả công việc
Qui trình ủy quyền
Qui trình ủy quyền gồm có những bước cơ bản sau:
– xác định kết quả muốn. Việc giao quyền là nhằm cho người xung quanh có cấp độ thực hiện được công việc. Nếu việc giao quyền mà người được giao k thể thực hiện được thì công việc ủy quyền này là vô nghĩa. thành ra cần phải ủy quyền tương xứng với công việc và giúp cho họ thực hiện công tác được giao.
– lựa chọn người và giao Nhiệm vụ
– Giao quyền hạn để thực hiện các nghĩa vụ đó
– Yêu cầu người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm
– Giám sát và đánh giá
quy tắc ủy quyền
Để việc ủy quyền thật sự có trị giá và mang lại kết quả, khi ủy quyền cần phải tuân theo các nguyên tắc sau:
(1) Trong hệ thống tổ chức, việc ủy quyền thường là ủy quyền cho cấp dưới trực tiếp, nghĩa là cấp trên ủy quyền cho cấp dưới trực tiếp mà k được vượt cấp
(2) Sự ủy quyền không sử dụng mất đi hay thu nhỏ trách nhiệm của người được ủy quyền
(3) quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm của người ủy quyền và người được ủy quyền phải bảo đảm và gắn bó với nhau. quy tắc này đòi hỏi phải đảm bảo sự tương xứng giữa nghĩa vụ, ích lợi và trách nhiệm
(4) content, ranh giới của Nhiệm vụ được ủy quyền phải dựng lại rạch ròi
(5) Ủy quyền phải tự giác không áp đặt.
(6) Người được ủy quyền cần có đa số thông tin trước khi bắt tay vào việc
(7) mãi mãi phải có sự test trong quá trình thực hiện sự ủy quyền
Trong nhiều công trình nghiên cứu về những fail của công tác quản trị hầu như đều chỉ ra tại sao là giao quyền k đúng mức hoặc thô thiển. Nói mẹo không giống, về phương diện nào đó, ủy quyền là nghệ thuật của quản trị. Ủy quyền là tạo được cho cấp dưới được rèn luyện trong nghĩa vụ mới, đó là cơ sở để chọn, bề bạt những người có năng lực vào những vị trí quan trọng trong bộ máy quản trị.
quá trình uỷ thác côgn việc hiệu quả
Sự ủy quyền phải được tiến hành một mẹo có ý thức từ cả hai phía. vì thế nhà lãnh đạo phải tin cậy vào cấp dưới, sẵn sàng chỉ dẫn, chia sẻ và cho phép cấp dưới có những sai sót ở mức độ nhất định, đồng thời cần phải có sự check đôn đốc thường xuyên cấp dưới khi được ủy quyền phải thấy được trách nhiệm và những hạn chế trong quyền lực để k trở thành người lạm quyền gây thiệt hại cho tổ chức.
tóm tắt
tính năng của công tác tổ chức là liên kết các bộ phận, các gốc lực trong một thể thống nhất để thực hiện các chiến lược sách lược, các plan vừa mới đề ra.
Công tác đơn vị thường được xem xét trên ba khía cạnh: tổ chức guồng máy, tổ chức công việc và đơn vị nhân sự. Cũng như mọi ngành nghề quản trị không giống công tác đơn vị cũng thường có hai mặt content và hình thức, vì vậy, để nghiên cứu và thực hiện công tác tổ chức khoa học chúng ta k thể bỏ qua hai khía cạnh vừa nêu.
Tầm hạn quản trị là số lượng nhân sự cấp dưới mà một nhà quản trị có thể điều khiển, giám sát trực tiếp và có hiệu quả. Tầm hạn quản trị hẹp sẽ giúp gia tăng số cấp quản trị. Tầm hạn quản trị rộng hay hẹp dựa vào vào những nguyên nhân như: trình độ của nhà quản trị, sự uỷ quyền, tính chất công việc và công tác kế hoạch hoá của doanh nghiệp.
định nghĩa quyền hạn thể hiện quyền ra quyết định, chỉ thị, điều khiển cấp dưới phải hành động theo sự chỉ đạo của nhà quản trị. Quyền hạn của nhà quản trị chỉ đa số khi hội quá đủ 3 yếu tố: sự hợp pháp khi đảm nhận chức phận, cấp dưới thừa nhận quyền hạn đó là chính đáng và bản thân nhà quản trị có cấp độ và các đức tính khiến cấp dưới tin tưởng. Nếu không có quá đủ 3 yếu tố trên, quyền hạn của nhà quản trị sẽ không vững mạnh, rất khó điều khiển cấp dưới. bây giờ, các tổ chức dù kinh doanh hay phi kinh doanh, đều click mạnh đến sự phân cấp, nhưng có nhiều yếu tố cần phải cân nhắc trước khi đưa ra quyết định có phân cấp hay không. Xét về cấp độ phân cấp quản trị, chúng ta thấy có 2 xu hướng: phân quyền và tập quyền.
Phân quyền là xu hướng phân tán các quyền ra quyết định trong một cơ cấu đơn vị. Trong trường hợp quyền lực k được giao phó, chúng ta có sự tập quyền.
Ủy quyền (delegation) là giao phó quyền hạn và trách nhiệm cho mọi người để họ thay quyền thực hiện một nghĩa vụ riêng biệt.
Uỷ quyền giúp cho người quản lý mang ra những quyết định sáng suốt hơn, tận dụng tối đa quỹ thời gian, thống trị được một nhóm có đông thành viên, nâng cao hiệu quả công việc.
Có nhiều kiểu cơ cấu tổ chức quản trị, thông dụng nhất là: cơ cấu quản trị Trực tuyến, cơ cấu quản trị tính năng, cơ cấu quản trị online – chức năng, cơ cấu quản trị ảo trận. Trong việc thực hiện các sự thay đổi về cơ cấu đơn vị, chủ đề khó khăn nhất phải giải quyết là sự refresh về cách nghĩ, cách làm của con người. Đó là thành phần cơ bản quyết định sự thành đạt hay thất bại của việc update cơ cấu đơn vị quản trị của doanh nghiệp.
Nguồn:https://voer.edu.vn